Jan Ingenhousz và khám phá của ông về phương trình quang hợp được tôn vinh trong Google Doodle

Jan Ingenhousz - nhà khoa học người Hà Lan đã khám phá ra bí mật của quá trình quang hợp - được tổ chức vào ngày sinh nhật thứ 287 của ông.

Jan Ingenhousz và khám phá của ông về phương trình quang hợp được tôn vinh trong Google Doodle

Sau khi ban đầu học y khoa khi còn là một thiếu niên, Ingenhousz, ông đã bị cuốn hút bởi quá trình tạo năng lượng và quang hợp. Mặc dù không phải là người đầu tiên khám phá ra quá trình chuyển hóa oxy cơ bản, nhưng anh ấy đã mở ra những bí mật về cách ánh sáng mặt trời đóng một phần trong quá trình quang hợp và phương trình quang hợp.

Để đánh dấu sự đóng góp xuất sắc của ông cho khoa học, Google đã thiết kế một Doodle để vinh danh ông. Nó cho thấy Jan Ingenhousz thay cho chữ ‘O’ thứ hai trong từ Google. Chữ ‘O’ thứ hai là mặt trời. Chữ ‘L’ là cây mọc mầm. Nước được thể hiện đang được hấp thụ từ đất vào chữ L và một chiếc lá ở trên cùng cho thấy carbon dioxide và oxy đi vào và ra khỏi cây. Phương trình quang hợp được hình bên phải.

Jan Ingenhousz

Jan Ingenhousz sinh ngày 8 tháng 12 năm 1730 tại Breda, Hà Lan. Anh ấy học y khoa và chuyên ngành cấy truyền.

Ở tuổi 35, Ingenhousz là một bác sĩ ở London và được biết đến với công việc của ông trong cái gọi là biến thể - cấy vi rút chống lại bệnh đậu mùa bằng cách sử dụng các mẫu vi rút sống từ những bệnh nhân mắc bệnh.

Xem Jackie Forster, phóng viên và nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính có liên quan, được tôn vinh trong Google Doodle ngày nay Olaudah Equiano và câu chuyện đau lòng về chế độ nô lệ đằng sau Google Doodle ngày nay Clare Hollingworth, nhà báo tiên phong đã đưa tin về Thế chiến 2, được tôn vinh trong Google Doodle hôm nay. mười hình tượng trưng của Google mang tính biểu tượng nhất

Thay vì sử dụng kim theo cách mà chúng ta biết ngày nay, việc cấy ghép vào thế kỷ 18 bao gồm việc đưa đầu kim vào mủ của nốt đậu của người bị nhiễm bệnh và sau đó chích vào da của người được cấy để tạo ra một lượng nhỏ mủ. một phản ứng miễn dịch chống lại bệnh tật.

Năm 1768, Jan Ingenhousz đến Vienna để cấy giống nữ hoàng Áo Maria Theresa, người rất hài lòng với anh ta, bà đã thuê anh ta làm thầy thuốc của triều đình trong 11 năm.

Khi trở lại London, Jan Ingenhousz đã công bố nghiên cứu của mình về các thí nghiệm của ông về quá trình checmial ở thực vật và sinh lý thực vật, có tiêu đề Thử nghiệm trên rau, khám phá sức mạnh tuyệt vời của chúng trong việc lọc sạch không khí chung dưới ánh nắng mặt trời.

Nghiên cứu này được xây dựng dựa trên công trình nghiên cứu của nhà hóa học người Anh Joseph Priestley và tiến thêm một bước nữa, lưu ý rằng ánh sáng đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp và chỉ những phần xanh của thực vật mới thực hiện quá trình quang hợp. Ông cũng phát hiện ra rằng quá trình này thực sự “làm hỏng” không khí, nhưng phần phục hồi “vượt xa tác động gây hại của nó”.

Quang hợp: Nó là gì?

Một lượng đáng kể oxy trong không khí mà chúng ta hít thở được tạo ra bởi thực vật và cây cối. Joseph Priestley đã phát hiện ra rằng thực vật chuyển đổi nước từ đất và không khí, cùng với carbon dioxide trong khí quyển, thành glucose và oxy.

Jan Ingenhousz sau đó phát hiện ra rằng phản ứng hóa học này cần năng lượng ánh sáng, năng lượng này được hấp thụ bởi một chất màu xanh lá cây gọi là diệp lục, chịu trách nhiệm tạo cho cây cối và cây cối có màu sắc. Đặc biệt, tế bào lá có chứa lục lạp, những vật nhỏ bé có chứa diệp lục.

Sử dụng chất diệp lục, cây xanh hấp thụ năng lượng ánh sáng từ mặt trời. Chúng phản ứng carbon dioxide

Cây xanh hấp thụ năng lượng ánh sáng bằng cách sử dụng chất diệp lục trong lá của chúng. Họ sử dụng nó để phản ứng carbon dioxide với nước để tạo ra một loại đường gọi là glucose. Glucose này được sử dụng trong quá trình hô hấp, hoặc chuyển hóa thành tinh bột và được lưu trữ và oxy sau đó là sản phẩm phụ của phản ứng này.

Ngoài việc khám phá ra tầm quan trọng của năng lượng ánh sáng, Jan Ingenhousz cũng nhận ra rằng nhiệt độ, bao nhiêu carbon dioxide trong không khí và ánh sáng mạnh như thế nào đều đóng một vai trò quan trọng trong tốc độ quang hợp.

Phương trình quang hợp

Quá trình nói trên sử dụng phương trình quang hợp của:

cacbon đioxit + nước (+ năng lượng ánh sáng) —-> glucozơ + oxi.

Năng lượng ánh sáng không phải là một chất, đó là lý do tại sao nó đôi khi được hiển thị trong ngoặc đơn hoặc được viết về mũi tên giữa carbon dioxide và nước, glucose và oxy.

Phương trình quang hợp cân bằng là: 6CO2 + 6 giờ2O -> C6H12O6 + 6O2 ở đâu CO2 = carbon dioxide, H2O = nước, C6H12O6 = glucose và O2 = oxy, với năng lượng ánh sáng làm chất xúc tác.